Một câu chuyện của nhà văn Phan Nhật Nam
|
Đó là lời của nhà văn Phan Nhật Nam mà tôi đã được nghe trong câu chuyện ông kể, khi gặp ông một cách hết sức tình cờ tại nhà anh bạn vào tối hôm trước.
Ông Phan Nhật Nam tốt nghiệp trường sĩ quan võ bị Đà Lạt. Phục vụ trong Quân lực VNCH thuộc binh chủng Nhảy dù.
Ông Phan Nhật Nam tốt nghiệp trường sĩ quan võ bị Đà Lạt. Phục vụ trong Quân lực VNCH thuộc binh chủng Nhảy dù.
Đại úy Phan Nhật Nam cũng là một người bình thường như bao sĩ quan, lính tráng đã từng phục vụ cho chế độ miền Nam trước đây.
Nhưng nhiều người biết đến ông trong vai trò một nhà văn.
Tác phẩm đầu tay của ông "Dấu binh lửa" được xuất bản năm 1969. Liên tục những năm tiếp theo, trong giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến Bắc-Nam. Ông cho ra đời những tác phẩm như: "Ải trần gian", "Dọc đường số Một", "Dựa lưng nỗi chết", "Mùa hè đỏ lửa"... đó cũng là lý do nhiều người biết đến ông, nhà văn Phan Nhật Nam, một người lính, một chứng nhân sống động kể về cuộc chiến tang thương tàn khốc của dân tộc Việt.
Trong những câu chuyện thú vị ông kể cho chúng tôi nghe trong buổi gặp gỡ tối hôm đó. Ông nói về chuyện đời, chuyện người và chuyện mình. Những sự kiện éo le mà ông đã gặp. Không một lời trách móc, không một chút nuối tiếc. Ở cái tuổi "thất thập cổ lại hy", ông kiến giải mọi chuyện theo nhãn quan như mọi chuyện đều sắp đặt của số phận, dưới sự an bài của Thượng Đế.
Ngày 29/4. Ngày tàn cuối cùng của cuộc chiến. Mặc dù nằm trong bộ phận liên lạc và sắp xếp cho những người được phép di tản ở sân bay Tân Sơn Nhất nhưng ông lại không nghĩ đến việc đưa gia đình vợ con ra đi khi được người đồng sự nhắc nhở: "your turn".Gia đình ông bị kẹt lại và sau này vợ và con ông phải vượt biên theo ngả Campuchia bằng đường bộ.
Ông kể về những lần đi công vụ nhận và trao trả tù binh. Từ TNS John Mc Cain bây giờ, đến cựu Đại sứ Peterson hồi trước, và hàng ngàn người lính khác nhau ở hai bờ chiến tuyến đã được ông nhận lãnh và trao trả ở Lộc Ninh, ở Cà Mau hay ra tận Nội Bài.
Cụ thân sinh của ông làm ở phòng Nhì- Sở Mật thám của Pháp và đi theo Việt Minh. Sau hòa bình ở miền Bắc thì không còn được tin dùng.
Trong những câu chuyện thú vị ông kể cho chúng tôi nghe trong buổi gặp gỡ tối hôm đó. Ông nói về chuyện đời, chuyện người và chuyện mình. Những sự kiện éo le mà ông đã gặp. Không một lời trách móc, không một chút nuối tiếc. Ở cái tuổi "thất thập cổ lại hy", ông kiến giải mọi chuyện theo nhãn quan như mọi chuyện đều sắp đặt của số phận, dưới sự an bài của Thượng Đế.
Ngày 29/4. Ngày tàn cuối cùng của cuộc chiến. Mặc dù nằm trong bộ phận liên lạc và sắp xếp cho những người được phép di tản ở sân bay Tân Sơn Nhất nhưng ông lại không nghĩ đến việc đưa gia đình vợ con ra đi khi được người đồng sự nhắc nhở: "your turn".Gia đình ông bị kẹt lại và sau này vợ và con ông phải vượt biên theo ngả Campuchia bằng đường bộ.
Ông kể về những lần đi công vụ nhận và trao trả tù binh. Từ TNS John Mc Cain bây giờ, đến cựu Đại sứ Peterson hồi trước, và hàng ngàn người lính khác nhau ở hai bờ chiến tuyến đã được ông nhận lãnh và trao trả ở Lộc Ninh, ở Cà Mau hay ra tận Nội Bài.
Cụ thân sinh của ông làm ở phòng Nhì- Sở Mật thám của Pháp và đi theo Việt Minh. Sau hòa bình ở miền Bắc thì không còn được tin dùng.
Có lần ông cùng phái đoàn quân đội miền Nam đi Hà Nội và đã bị phái đoàn quân đội Bắc Việt dùng hình ảnh ba của ông để chiêu dụ ông quy hàng.
Ông kể rằng sau sự kiện đó. Sau khi về lại Sài Gòn, ông bị nhận hình phạt làm lính không lon trong suốt 60 ngày. Cha con không gặp được nhau trong quãng thời gian dài đằng đẵng cho đến khi 1985 cụ thân sinh phải vất vả từ Sài Gòn lặn lội ra Thanh Hóa tìm thăm.
14 năm nếm mùi lao tù. Trong đó có 7 năm biệt giam, bị cùm tay - chân và nhốt trong hầm kín vì tác phẩm "Tù nhân và hòa bình" (in năm 1974) của ông được giải thưởng văn học ở hải ngoại.
Năm 1989 ông được phóng thích nhưng vẫn bị quản chế ở Bình Dương. Sống trong một căn nhà tranh vuông vức với tấm nền là 360 miếng gạch tàu do bạn bè giúp đỡ góp tiền. Ông cho rằng đây là quãng đời hạnh phúc khi được sống giữa tình bằng hữu.
Làm một người lính chiến, nhưng chữ nghĩa nó vận vào người mà buộc mình phải viết ra sự thật. Cái nợ văn chương nó vậy. Ông nói.
Mang tinh thần cảm khái của một người lính Nhảy dù. Với tâm niệm viết ra cho tận cùng sự thật những gì mình chứng kiến.
14 năm nếm mùi lao tù. Trong đó có 7 năm biệt giam, bị cùm tay - chân và nhốt trong hầm kín vì tác phẩm "Tù nhân và hòa bình" (in năm 1974) của ông được giải thưởng văn học ở hải ngoại.
Năm 1989 ông được phóng thích nhưng vẫn bị quản chế ở Bình Dương. Sống trong một căn nhà tranh vuông vức với tấm nền là 360 miếng gạch tàu do bạn bè giúp đỡ góp tiền. Ông cho rằng đây là quãng đời hạnh phúc khi được sống giữa tình bằng hữu.
Làm một người lính chiến, nhưng chữ nghĩa nó vận vào người mà buộc mình phải viết ra sự thật. Cái nợ văn chương nó vậy. Ông nói.
Mang tinh thần cảm khái của một người lính Nhảy dù. Với tâm niệm viết ra cho tận cùng sự thật những gì mình chứng kiến.
Nhà văn Phan Nhật Nam khi mới ra định cư ở hải ngoại năm 1993 đã bị không ít nhóm người trong cộng đồng chụp cái mũ "cộng sản" từ Úc châu, đến Âu châu, qua Mỹ quốc.
Buồn tình, tôi qua ở hẳn bên Minnesota. Ông kể lại những chuyện đó. Và ông cười.
Sau một cuộc đại phẫu, vì lý do sức khỏe ông chuyển về vùng Nam California sống giữa bạn bè từ năm 2006.
Miên man theo những câu chuyện của một con người có nhiều trải nghiệm thăng trầm trong đời sống. Tôi nhận thấy ở trong ông có trái tim nhiều thương cảm của một nhà văn. Có một câu chuyện ông kể làm chúng tôi xúc động.
Trong quãng thời gian khi bị quản thúc ở Bình Dương, ông gặp một đôi vợ chồng bị thương tật. Vợ cụt hai tay, chồng bị mù cùng dắt díu 2 đứa con lội bộ từ Lộc Ninh về Bình Dương khi trời đang sẫm tối.
Sau một cuộc đại phẫu, vì lý do sức khỏe ông chuyển về vùng Nam California sống giữa bạn bè từ năm 2006.
Miên man theo những câu chuyện của một con người có nhiều trải nghiệm thăng trầm trong đời sống. Tôi nhận thấy ở trong ông có trái tim nhiều thương cảm của một nhà văn. Có một câu chuyện ông kể làm chúng tôi xúc động.
Trong quãng thời gian khi bị quản thúc ở Bình Dương, ông gặp một đôi vợ chồng bị thương tật. Vợ cụt hai tay, chồng bị mù cùng dắt díu 2 đứa con lội bộ từ Lộc Ninh về Bình Dương khi trời đang sẫm tối.
Ông hỏi anh chị đi đâu? Thì được nghe trả lời là tính đi bộ về Tây Ninh vì nghe đâu dưới đó có Chùa đang phát chẩn.
Ông bảo: Thôi, lên xe ông chở ra bến xe An Sương.
Rồi ông cho tiền để đón xe đò.
Nếu đi bộ thì biết khi nào mới đến được?
Ông chở người vợ và 2 đứa con đi trước.
Dặn dò anh chồng mù ngồi yên, đừng đi đâu chờ ông quay lại.
Trên xe, chị vợ kể chị là chiến sĩ diệt Mỹ.
Đã từng đi hội nghị ở Cuba.
Trong một trận đánh chị ném lựu đạn bị thương cụt tay. Vào bệnh viện gặp anh chồng cũng là thương bệnh binh nên được kết hợp yêu nhau để tiện sau này cùng nhau chăm sóc.
Lúc ngồi chờ ở đây em mong là bác đừng quay lại. Và cũng muốn cho con vợ nó bỏ đi luôn. Vì đời em mà nó khổ quá nhiều rồi...
Ông nghẹn ngào khi lập lại lời bộc bạch của người chồng mù. Không giấu được xúc động. Đưa tay lên khóe mắt.
Ông nghẹn ngào khi lập lại lời bộc bạch của người chồng mù. Không giấu được xúc động. Đưa tay lên khóe mắt.
Rồi ông nói lớn:
Nỗi khổ của dân tộc mình nó lớn như một quả núi!
Nỗi khổ của dân tộc mình nó lớn như một quả núi. Câu nói của nhà văn Phan Nhật Nam khiến cho tôi cứ bị ám ảnh hoài.
Nỗi khổ của dân tộc mình nó lớn như một quả núi!
Nỗi khổ của dân tộc mình nó lớn như một quả núi. Câu nói của nhà văn Phan Nhật Nam khiến cho tôi cứ bị ám ảnh hoài.