“Chính trị hóa” làm tê liệt xã hội
BS. Nguyễn Quang Bình Tuy
Nhân việc bàn về “phi chính trị hóa quân đội”, cũng là cơ hội để chúng ta nhìn lại hàng loạt vấn đề của xã hội hôm nay như đạo đức suy đồi, quá tải bệnh viện, giáo dục xuống cấp, thanh niên không có tay nghề lẫn kỹ năng làm việc, không thể tuyển người giỏi vô làm công chức… Có thể khẳng định, đó là do chúng ta “chính trị hóa” mọi mặt của đời sống xã hội. Chính trị hóa len lỏi tới mọi ngành nghề, mọi giới và mọi nơi. Chính trị hóa đã làm xơ cứng xã hội, làm tê liệt xã hội, khiến không ai dám nói thật vì sợ “phản động”, không ai dám làm vì sợ “làm trái ý lãnh đạo”, không ai dám sáng tạo vì sợ “lãnh đạo biết mình giỏi hơn”… Suy cho cùng, ai cũng phải căng thẳng, vắt óc suy nghĩ để nói gì và làm gì sao cho đẹp lòng lãnh đạo để mà sống vì miếng cơm manh áo. “Nói thật thì sợ mất lòng” nên đành phải… nói dối. Mà nói dối lâu ngày thành thói quen và trở thành bản chất của mình lúc nào không hay. Hậu quả là mọi người chỉ nói theo những gì lãnh đạo (cơ quan, tổ chức…) đã nói và muốn nghe. Những ai tồn tại và được thăng tiến được trong môi trường đó thì gần như chắc chắn cũng thuộc hàng “nịnh hót” và “miệng lưỡi đỡ tay chân” mà thôi. Mà người giỏi, người tài thì không ai thích làm chuyện đó cả, mà họ cần một lãnh đạo anh minh, biết tạo đất để họ dụng võ, phát huy hết khả năng của mình. Thế thì làm sao chúng ta có được người giỏi người tài, khi mà hiện nay tiêu chí xét thăng chức quản lý từ cấp thấp nhất là phó phòng, phó khoa của một bệnh viện bắt buộc phải là… đảng viên Đảng Cộng sản bất kể chuyên môn “có vấn đề”!
Chúng ta đã trải qua nhiều thời kỳ: chiến tranh, bao cấp, đổi mới. Dễ nhận ra rằng, khi “chính trị hóa” càng rộng ra nhiều mặt của xã hội thì không khí càng “nghẹt thở” và càng trở nên “bí hiểm”. Trước đây, thời bao cấp do chính trị hóa cả lĩnh vực kinh tế nên hậu quả là ai cũng trở thành “tội phạm” vì bán các mặt hàng cơ bản như thực phẩm, hàng gia dụng… mặc dù chỉ đơn thuần là “làm để kiếm ăn”. Lúc đó chúng ta gọi một cách khinh miệt những người buôn bán là “bọn con buôn” và đổ hết những lý do làm kinh tế xáo trộn lên đầu họ. Sau khi mở cửa và “đổi mới”, chúng ta “thôi chính trị hóa” lĩnh vực kinh tế bằng cách dẹp bỏ chế độ tem phiếu và cửa hàng bách hóa, trả lại việc buôn bán cho dân nên kinh tế phát triển, có của ăn của để, và những người buôn bán được gọi một cách trìu mến là “thương nhân”, “doanh nhân”. Nói vậy không phải để bình phẩm đúng sai của lịch sử, nhưng để cho thấy cũng cùng một vấn đề, nhưng nếu nhìn dưới một lăng kính “chính trị” thì sẽ thấy đâu cũng là “kẻ thù”, cũng là “phản động”, nhưng nếu nhìn với lăng kính “dân sự” thì ai cũng có công đóng góp phát triển đất nước.
Như vậy có bao nhiêu lĩnh vực nữa mà chúng ta đã gỡ bỏ thành công cái “vòng kim cô” “chính trị hóa” và trả nó về “dân sự”, và rồi nhận ra rằng “tại sao ta không gỡ nó sớm hơn, vì nó có hại gì đâu?”. Đơn cử một lĩnh vực nữa chúng ta đã làm được, đó là người dân được tự do đi nước ngoài, điều mà cách đây không lâu là “phạm pháp”, là “phản bội Tổ quốc”, thậm chí du kích được quyền bắn bỏ ngoài bãi biển bất kỳ ai “đi vượt biên” mà không cần xét xử. Thế rồi mở cửa… nhưng vẫn chưa mở hết với lĩnh vực này. Tôi nhớ cuối những năm 1990 đầu những năm 2000 muốn làm passport phải khai báo là “thất nghiệp” hoặc “lao động tự do”, chứ nếu khai là trí thức như bác sĩ, dược sĩ… thì không thể nào được cấp passport. Ngày nay thì mọi người đều có thể làm passport một cách tự do mà không cần có lý do, muốn đi nước nào thì đi, miễn nước đó nhận mình, kể cả “đế quốc Mỹ”. Vậy thực sự việc đi nước ngoài có quá nguy hiểm với chế độ, có “làm mất chế độ” như chúng ta từng lo sợ không? Ngược lại nữa là khác! Lượng kiều hối quay ngược lại để phát triển đất nước là một minh chứng thưc tế.
Thử nhìn vào Bắc Triều Tiên xem lãnh đạo họ hành xử có bất thường không? Nếu trả lời “có”, tức là chúng ta đã thoát ra rồi, đang đứng ngoài nhìn vào họ.
Nếu chúng ta đứng chung với họ thì sẽ trả lời là “không có gì bất thường”.
Quay ngược lại thời bao cấp, hình ảnh của chúng ta trong con mắt của thế giới giống y như vậy, giống đến từng chi tiết nhỏ nhất. Giờ đây, chúng ta đang cố giữ thể chế “toàn trị”, cái mà thế giới phương Tây văn minh họ lên án rất nhiều vì nó làm khổ dân, làm suy yếu đất nước và khuyên chúng ta nên thay đổi để có lợi cho chính chúng ta, giúp chúng ta phát triển hơn, văn minh hơn, đồng thời bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ tốt hơn. Vậy hãy thử dũng cảm “nhảy ra” khỏi cái vòng luẩn quẩn đó thì mới thấy chúng ta “đang bất thường”.
Đừng cố thanh minh và biện minh làm gì, chỉ tốn thời gian và càng chứng tỏ mình “tham quyền cố vị” mà thôi. Muốn xem một trận bóng hay thì phải ngồi ở khán đài, chứ đâu ai đứng trong sân mà xem. Hãy thử đứng ở khán đài một lần để có cảm giác như thế nào là bình thường và bất thường.
Quay sang Miến Điện, những cú xoay chuyển ngoạn mục của họ có làm họ suy yếu thêm không? Có làm họ “lệ thuộc Mỹ” không hay là thoát khỏi “gọng kìm Trung Quốc”? Có bị ai “giật dây” không? Dân họ sướng hơn hay khổ hơn sau cú chuyển xoay đó? Xã hội của họ có bị rối loạn không hay là dễ thở hơn nhiều? Với đà này, chỉ cần 10 năm nữa họ sẽ vượt qua mặt chúng ta ngay, chắc chắn là vậy. Phải nói ngay, Mỹ không có tham vọng lãnh thổ, không chiếm nước ta, trong khi Trung Quốc nhiều lần bành trướng xâm lược nước ta. Minh chứng cho điều này là chỉ khi Mỹ rút khỏi chiến tranh ViệtNam thì Trung Quốc mới dám khởi binh chiếm Hoàng Sa.
Như vậy ai dã tâm thì đã biết rõ rồi.
Các vấn nạn xã hội hôm nay mà chúng ta đang phải đối mặt đều có cùng một nguyên nhân là “chính trị hóa”.Do chính trị hóa nên nhiều lĩnh vực đáng lẽ thuộc dân sự, nhưng lại được tổ chức và vận hành mang màu sắc chính trị. Hậu quả là, các tiêu chí đánh giá tổ chức dân sự đó tốt hay xấu đáng lý ra phải dựa vào các tiêu chuẩn chuyên môn, nhưng lại dựa vào tiêu chí chính trị! Hãy thử phân tích từng quốc nạn sẽ rõ.
1. Quá tải bệnh viện
Tôi thấy trải qua bao đời Bộ trưởng Bộ Y tế, và với quyết tâm chính trị rất lớn là làm sao để giảm quá tải bệnh viện, nhưng đều thất bại. Kết quả là quá tải bệnh viện lớn, chuyên môn sâu ở Hà Nội và Sài Gòn vẫn là vấn đề nhức nhối chưa có lời giải. Bộ trưởng nào lên cũng tìm một lý do để giải thích cho sự quá tải đó, nhưng tất cả đều là mệnh lệnh hành chánh và không thể thành công trong thực tiễn. Các giải pháp “ngăn sông cấm chợ” (khám bệnh theo tuyến, trái tuyến trả tiền cao hơn) đã từng làm và từng thất bại, nhưng nay lại tiếp tục đem ra làm, và chắc chắn sẽ thất bại tiếp. Sao không thử nghĩ, nếu con của Bộ trưởng bị bệnh nguy cấp trên đường đi công tác, Bộ trưởng có dám đưa con vô cấp cứu tại một bệnh viện tỉnh không, chưa nói đến bệnh viện huyện, hay là tức tốc về Sài Gòn hay Hà Nội để cứu chữa, hay thậm chí bay sang nước ngoài? Thế thì tại sao lại bắt người dân phải vô khám những nơi điều trị kém như vậy? Ngày càng có nhiều bệnh viện cấp tỉnh kém về chuyên môn, mặc dù có trang bị trang thiết bị hiện đại, thì người dân ngày càng kéo về thành phố lớn. Tại sao như vậy?
Tại vì, không gì thay thế được con người cả. Nếu thay được, người ta đã chế tạo ra máy khám bệnh rồi, và không cần đào tạo bác sĩ làm chi cho tốn công, tốn tiền… Mà muốn có con người tốt thì phải được tổ chức tốt, thì mới thu hút được người giỏi ở lại và cống hiến hết mình. Chỉ cần có người giỏi làm việc thì không cần đầu tư máy móc hiện đại, cũng giải quyết nhiều vấn đề rồi. Mà muốn những người này ở lại làm, cách duy nhất là phải có lãnh đạo khoa, lãnh đạo bệnh viện giỏi, và…không cần là đảng viên!
Người giỏi chuyên môn thì sẽ lấy tiêu chí chuyên môn ra để phấn đấu và để đánh giá nhân viên dưới quyền, kết quả là chuyên môn ngày càng cao và tăng uy tín cho bệnh viện. Còn người thăng tiến nhờ chính trị mà chuyên môn kém thì chắc chắn sẽ tập hợp quanh mình những người kém cỏi và khiến nhiều người giỏi và tâm huyết nghề nghiệp phải ra đi. Đó là chưa kể họ sẽ tham nhũng thông qua việc mua sắm thiết bị chất lượng kém với giá cao, bất chấp có ảnh hưởng tới hoạt động chuyên môn. Hiếm có người nào thăng tiến nhờ chính trị mà lại vừa giỏi chuyên môn. Tôi có bạn bè làm trưởng phó khoa, thậm chí giám đốc bệnh viện, họ tâm sự “vô Đảng cho có thôi, chứ mình chỉ thích làm chuyên môn”.
Như vậy hăy trả tổ chức bệnh viện về “dân sự” và thay đổi tiêu chí đánh giá bệnh viện dựa trên uy tín của bệnh viện về chuyên môn với dân chúng. Chỉ cần 64 tỉnh thành có 64 bệnh viện tỉnh thực sự giỏi chuyên môn là đủ sức giảm tải cho bệnh viện ở hai thành phố lớn Hà Nội và Sài Gòn. Không ai muốn tốn tiền tốn bạc, ăn dầm nằm dề tại các bệnh viện thành phố, phải bỏ công ăn việc làm để nuôi bệnh cả.
Tình hình hiện nay, chúng ta có dũng cảm “bỏ tiêu chuẩn đảng viên” trong lựa chọn giám đốc bệnh viện cũng như trưởng và phó khoa phòng không? Song song đó là thi tuyển giám đốc để chọn ra 64 giám đốc bệnh viện tỉnh giỏi, biết làm việc, có tâm với ngành. Chỉ cần vậy, trong vòng 5 năm sẽ xóa ngay tình trạng quá tải bệnh viện thành phố.
2. Giáo dục xuống cấp và đạo đức suy đồi
Giáo dục cũng tương tự, từ cấp tổ phó bộ môn trở lên phần lớn là đảng viên. Đó là chưa kể chương trình giáo dục chúng ta quá nặng nề về chính trị. Ngay cả dạy lịch sử, chúng ta cũng không khách quan, mà nặng tính chính trị, lồng ghép bình luận lịch sử theo quan điểm chính trị của Đảng Cộng sản. Chính vì cách dạy lịch sử như vậy, nên không thể có lịch sử hay, không thể trách tại sao học sinh không biết lịch sử nước ta qua 4000 năm lịch sử hay tới mức nào. Ba tôi là Giáo sư dạy sử tiểu học thời chế độ Việt Nam Cộng hòa, chỉ cần nghe ông kể chuyện sử trong mỗi bữa ăn tôi cũng đã thuộc rồi, và thấy rất hay. Tôi biết tại sao có Trịnh-Nguyễn phân tranh, tại sao có dải đất phía Nam trù phú, tại sao ngoài Bắc có “con cả” nhưng trong Nam không có, mà bắt đầu là “con thứ Hai”, tại sao có áo dài Việt Nam, từ thời nào bắt đầu mặc quần hai ống, Huyền Trân Công Chúa có công như thế nào… rất rất và rất nhiều điều để nói.
Đạo đức xuống cấp là do chúng ta không dạy học sinh cách ứng xử, cách xưng hô, thưa gởi như thế nào. Con tôi mới học lớp 1, nhưng nó đột nhiên hỏi tôi: “Ba, bộ Bác Hồ tốt lắm hả Ba?”. Tôi ngạc nhiên và thắc mắc, tại sao chuyện “đi thưa về trình” tôi lại phải nhắc mỗi ngày cả năm rồi mà nó vẫn quên hoài, có ông bà nội ngoại đến thăm thì phải nhắc nó liên tục để thưa, trong khi lại hỏi chuyện đó với một thái độ rất ngưỡng mộ! Tôi hỏi con “Vậy con biết Bác Hồ là ai không?”. Con trả lời “Dạ không. Nhưng Bác Hồ cho mình cơm ăn áo mặc, tốt lắm Ba”. Tới đó tôi cũng không biết nói gì hơn. Phải chi nhà trường dạy nó cách thưa Ba Mẹ đi học thì nói làm sao (“Thưa Ba Mẹ con đi học”) và cách trình khi về nhà như thế nào (“Thưa Ba Mẹ con đi học về”) và cách đứng nghiêm, khoanh tay, cúi đầu như thế nào và bắt các em thực tập tại lớp. Tôi đảm bảo chỉ cần có một lần như vậy, các em sẽ nhớ và làm theo ngay, vì các em rất nghe lời cô giáo, hơn cả ba mẹ. Những gì cô thầy dặn ở lớp, các em rất nghe theo, và về nhà đòi cho bằng được. Điển hình là đòi quà sinh nhật bạn trong lớp, tối 9-10 giờ phải đi mua cho bằng được, không thì không dám đi học nữa?!
Thiết nghĩ, mỗi lứa tuổi các em sẽ thường gặp những vấn đề trong cuộc sống hàng ngày. Làm sao để các em biết ứng xử trong hoàn cảnh đó, biết phát hiện tình huống nguy hiểm và biết cách thoát ra bằng cách nào. Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng đủ để giảm đi rất nhiều tình huống bi thương như nạn hiếp dâm trẻ em, mà người phạm tội lại chính là những người thân hay lại chính là thầy giáo như đã thấy. Đừng dạy quá nhiều chính trị, triết học suốt cả 12 năm học, rồi lên Đại học cũng dạy tiếp tục, mặc dù cả người dạy và người học đều biết rõ nó vô bổ và phi thực tế, nhưng lại là cái “cần câu cơm” cho các giáo viên dạy các môn đó.
Người nước ngoài họ không khinh ta nghèo hay giàu, mà chỉ khinh ta không biết cách ứng xử nơi công cộng. Ngay cả chúng ta với nhau, cũng đôi lúc thốt ra câu này “giàu mà hành xử chẳng ra gì”. Vậy hãy dạy các em đừng hành xử “chẳng ra gì” như vậy, để các em “thành người”. Không có gì khó cả, chỉ cần dựa vào nhu cầu sống hàng ngày, các em lứa tuổi đó thì dạy gì để sống với cộng đồng.
- Tiểu học: dạy đi thưa về trình, yêu quý ông bà cha mẹ thể hiện như thế nào, cách chào khách khi có khách tới nhà, cách giữ vệ sinh bản thân.
- Trung học cơ sở: giáo dục giới tính, nhận diện những tình huống nguy hiểm cho giới tính và cách thoát ra, cách đi đường, cách ứng xử nơi công cộng (nói nhỏ, nhường người lớn tuổi và phụ nữ, xếp hàng, đón xe buýt…)
- Trung học phổ thông (cấp 3): cách thuyết trình, nói chuyện trước đám đông, cách giao tiếp ngoài xã hội, cách nói chuyện với người nước ngoài, cách ứng xử với bạn bè cùng phái và khác phái, hậu quả cho bé gái của việc quan hệ tính dục khi chưa đủ tuổi trưởng thành, tình yêu trong sáng…
Nhân cách con người hình thành qua các cách hành xử hàng ngày, lâu dần thành thói quen và trở thành bản chất của một con người, thông qua quá trình sống ở gia đình và học ở trường. Nhà trường có tác động rất lớn tới việc hoàn thiện nhân cách của trẻ. Do đó phải dạy trẻ, mà không chỉ dạy, mà phải uốn nắn từng chi tiết, để làm sao trẻ thực tập được, ứng xử như một người văn minh, có văn hóa, gọi là “có học thức”. Điều đó cần cả nội dung hay, giáo trình hấp dẫn, cách dạy có phương pháp, lẫn người thầy gương mẫu.
Khó để có người thầy như vậy trong xã hội ngày nay, nhưng nếu không bắt đầu thì sẽ mai một dần, sẽ hết dần những người có tâm huyết với giáo dục, chỉ còn lại những người toan tính về chính trị thì sẽ mất đi cái “đậm đà bản sắc văn hóa” mà chúng ta treo nhan nhản ở mỗi trường học. Nhưng cái bản sắc đó là gì, thì chưa chắc ông Bộ trưởng biết mô tả cụ thể, nói chi đến đưa ra chiến lược rồi triển khai thực tế, là khoảng cách rất xa.
Hãy trả giáo dục về dân sự, sức sáng tạo mạnh mẽ của người Việt sẽ làm nên những điều kỳ diệu mà không cần phải tốn nhiều thời gian, không cần phải “nhập khẩu” chương trình giáo dục, cũng không cần mời chuyên gia nước ngoài nào cả. Chỉ cần “phi chính trị hóa” nền giáo dục, để từng người hiến kế mà không bị quy chụp, không bị cho là phản động.
3. Không thể tuyển người giỏi làm công chức
Các ngành như Hải quan, Thuế, cơ quan nhà nước… thì đâu cần phải chính trị hóa. Làm công chức đâu nhất thiết phải theo Đảng Cộng sản hay bất kỳ một đảng nào khác? Việc chính trị hóa làm cho các công chức “tưởng mình là ngon” nên cứ “vênh vênh” và la ó chửi bới người dân rất khó coi. Chưa kể ăn cắp giờ công để làm việc riêng, tạo nên sức ỳ cho nền hành chánh nước nhà.
Các cơ quan làm công việc hành chánh cần chuyển về dân sự, không cần tuyển dụng dựa vào “lý lịch tốt” mà bỏ qua các yếu tố chuyên môn giỏi. Việc thăng chức cũng dựa vào chuyên môn, chứ không dựa vào lý lịch và đảng viên, sẽ loại bỏ những thái độ hống hách đặc quyền hiện nay. Lúc đó chính quyền sẽ trở nên thân thiện hơn với dân, mọi người sẽ làm việc theo chuyên môn, theo luật chứ không theo bất kỳ một mệnh lệnh chính trị nào khác.
Khi “dân sự hóa” các cơ quan hành chánh, một người công chức sẽ thấy trách nhiệm mình lên cao, phải làm gì để xứng đáng với vị trí đó, nếu vi phạm thì vẫn bị đuổi việc nghiêm khắc bởi người trực tiếp quản lý thì thái độ sẽ tốt hơn nhiều, bởi lúc đó họ biết rằng không còn chỗ dựa nào khác ngoài sếp trực tiếp của mình. Khi người công chức thấy người quản lý của mình xử lý anh minh, có chuyên môn cao, xử lý tình huống tốt và đáng để học hỏi, tự động anh ta sẽ phải làm việc hết mình và không dám chểnh mảng.
4. Báo chí và truyền thông không dám nói thật
Khi thông tin bị kiểm soát bằng chính trị, chứ không phải bằng luật thì không ai dám nói thật. Báo chí không tự do, không thể tạo ra tranh luận để tránh sai lầm đáng tiếc. Một vấn đề càng được tranh luận nhiều chiều, nó sẽ càng đi tới đồng thuận và thiệt hại do sai lầm khi triển khai càng thấp. Đó là mặt tích cực của báo chí cần phải được nhìn nhận. Có thể xem các điển hình của sự tranh luận là hầm Thủ Thiêm, dự án bô-xít Tân Rai, dự án tàu cao tốc Bắc-Nam…
Khi mọi phát biểu đều phải “rào trước đón sau”, đều sợ “phạm thượng” thì sẽ không có góp ý chân thành, không có lời nói thật để nghe, và chắc chắn sẽ lạc lối.
Sự tranh luận tự do sẽ làm cho vấn đề trở nên khách quan và ngày càng sát thực tế. Nhu cầu đó chắc chắn một xã hội nào cũng cần. Nhưng nếu bị “chính trị hóa” như hiện nay, ai cũng sợ bị chụp mũ, bị ghép tội, thì chẳng ai dám nói thật, vì nói thật chỉ “rước họa vào thân” mà thôi.
5. Nghệ thuật không có tác phẩm hay
Chúng ta hay than vãn vì sao ngày càng không có tác phẩm nghệ thuật hay. Câu trả lời là, nó phụ thuộc với mức siết và kiểm duyệt vì mục đích chính trị. Người nhạc sĩ, thi hào, văn hào, nghệ sĩ… chỉ có thể cống hiến những tác phẩm hay nhất khi họ đạt được sự rung cảm cao nhất khi sáng tác, thể hiện… Lúc đó, họ sẽ cảm thấy “mình ở trong đó” và nói lên hết những gì từ đáy lòng. Việc kiểm duyệt làm họ nhụt chí và không còn sáng tạo nữa. Sáng tác nhiều lúc là ngẫu hứng chứ đâu phải “theo giờ giấc” được.
Sự tự do nói lên những suy nghĩ của họ sẽ tạo nên những tác phẩm bất hủ vượt thời gian.
6. Không dám bỏ tiền ra để làm ăn
Khi mà “kinh tế Nhà nước là chủ đạo” thì không ai dám bỏ tiền ra làm ăn cả, vì sợ một ngày nào đó “mất trắng”. Ngành nghề nào Nhà nước cũng “chủ đạo” cả, từ thu mua xuất khẩu nông sản cho tới dịch vụ hàng không, đóng tàu… đều có công ty Nhà nước. Khó có một lĩnh mực nào mà Nhà nước không nhảy vào. Nếu “muốn sống” thì phải “né” mấy ngành đó hoặc phải “có ai chống lưng” hoặc phải là doanh nghiệp nước ngoài (vì không dám “đụng”). Kết quả là ai cũng thấy, các ngành “mũi nhọn, xương sống” đều bị gãy, đều thua kém các doanh nghiệp nước ngoài, hoặc thậm chí có doanh nghiệp nhà nước chỉ làm thuê cho công ty nước ngoài đội lốt để nhận lấy vài phần trăm ít ỏi. Trong khi, dân có thể tự làm và thậm chí có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong nhiều lĩnh vực.
Nếu chúng ta “dân sự hóa” nền kinh tế, trả về cho dân tự làm tất cả các ngành nghề và họ sẽ cạnh tranh nhau để tồn tại, thì sẽ rất tốt cho xã hội. Nhà nước chỉ giữ những ngành chiến lược hoặc chỉ làm những ngành mà dân không làm như công nghiệp quốc phòng, dịch vụ công ích… Thu nhập của Nhà nước không phải từ các công ty Nhà nước, mà từ việc thu thuế. Chính sách thuế thấp nhưng công bằng, quản lý tốt, sẽ làm tăng ngân sách chứ không giảm. Là một người dân, khi đóng thuế thấp và phải chăng, ai cũng ý thức để đóng, thu đủ 100%, còn hơn là đặt mức thu quá cao rồi thất thu nhiều do trốn thuế. Khi người dân thấy nghĩa vụ của mình phải nộp thuế để phát triển đất nước, thì khi đó họ cũng thấy yêu nước hơn.
Nhà nước chỉ nên tập trung xây dựng bộ luật hoàn chỉnh, công bằng cho tất cả mọi người, chứ không nên ưu ái cho bất kỳ doanh nghiệp nào, kể cả doanh nghiệp nước ngoài. Khi chính sách rõ ràng, ưu tiên cho doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực chiến lược do Nhà nước đề ra, sẽ được ưu tiên thuế thấp. Không nên ôm đồm lập ra nhiều doanh nghiệp Nhà nước để rồi mất kiểm soát dòng tiền Nhà nước đầu tư, tạo ra hệ lụy rất lớn cho xã hội, mà khó có thể giải quyết ngày một ngày hai.
Chúng ta hay nói “vàng trữ trong dân rất lớn” nhưng chặn hết ngõ đầu tư: chứng khoán, đô la, vàng, bất động sản… nếu dân có tiền thì đầu tư vào cái gì? Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ, chưa có lối thoát, lại bàn chuyện giải cứu. Sao không mạnh dạn bán hết các doanh nghiệp đó cho dân? Khi nhà nước cam kết “không quốc hữu hóa” và “tôn trọng và đảm bảo vĩnh viễn quyền sở hữu tư nhân” trong Hiến pháp (chứ không phải Sở hữu Nhà nước là chủ đạo như hiện nay) thì tôi dám chắc không phải nặng đầu để suy nghĩ “giải quyết” các bài toán doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ. Lúc đó đâu cần phải dùng mọi biện pháp như Ngân hàng Nhà nước làm hiện nay để “huy động vàng trong dân”? Nhưng rồi có huy động được không, cho tới thời điểm này?
N.Q.B.T.
Theo Bauxite Việt Nam
Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013
Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013
Có xuyên tạc được không ? :)) A picture says a thousand words .
Tổng Thống Thiệu Đã Thoát Chết Như Thế Nào ?
Tổng Thống Thiệu Đã Thoát Chết Như Thế Nào ?
- Thứ Hai, 22 tháng Tư năm 2013 23:07
- Tác Giả: Nguyễn Tiến Hưng
Nhân dịp kỷ niệm ngày Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tạ thế, 29 tháng Chín, xin đặc biệt giới thiệu một số chi tiết về những ngày cuối của ông tại Việt Nam, trong khung cảnh nhiễu nhương của miền Nam đang hấp hối. Tác giả là Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng tại một Đại học ở miền Đông Hoa Kỳ, nguyên Tổng trưởng Kế hoạch của Việt Nam Cộng Hòa trước 1975. Ông có những quan hệ đặc biệt với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại sứ Graham Martin và sau 1975 đã thu thập dữ kiện, kể cả tài liệu sống của những người trong cuộc, để viết về thân phận Việt Nam Cộng Hoà. Sau cuốn “The Palace Files” bằng Anh ngữ xuất bản năm 1986, được Cung Thúc Tiến chuyển qua Việt ngữ, ông đã viết cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” cho độc giả Việt Nam, xuất bản năm 2005.
Tài liệu kế tiếp là cuốn sách có tựa đề “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” sẽ xuất bản nay mai. Đây là một phần trong Chương 18 của cuốn sách trên, liên hệ đến hoàn cảnh của Tổng thống Thiệu sau khi phải từ chức và ra khỏi Việt Nam. Chúng tôi xin cảm tạ tác giả và xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả…
THOÁT CHẾT LÚC RA ĐI
Đám đông đứng dọc đại lộ ngước lên nhìn những chiếc phản lực xé mây tung cánh sắt. Trên đài danh dự, quan khách chăm chú theo rõi cuộc duyệt binh vĩ đại. Các binh chủng trong những bộ quân phục đủ mầu theo nhau diễn hành. Từng lớp rồi lại từng lớp, xe tăng thiết giáp lừ lừ lăn bánh, trông thật oai hùng. Bất chợt, một chiếc xe dừng lại ngay trước khán đài. Viên sĩ quan chỉ huy bước xuống, rồi đứng vào thế nghiêm giơ tay chào. Người chủ tọa ngồi ghế giữa đứng lên để chào lại. Nhưng ông vừa đứng lên thì tiếng súng nổ đùng đùng, một loạt đạn bắn xả vào hàng ghế danh dự.
Đó là quang cảnh tại Cairô vào ngày 6 tháng 10, 1981. Hôm ấy là ngày Ai Cập kỷ niệm chiến thắng Do Thái năm 1973. Tổng thống Anwar El Sadat hãnh diện chủ tọa cuộc diễn binh với những khí giới tối tân nhất. Khi ông đứng lên để chào người sĩ quan, những kẻ sát nhân từ trong xe nhảy bổ ra hô lên thật to “Death to Pharaoh,” (Chết cho Pharaô) rồi bắn ông ngã gục. Cùng chịu số phận với ông là một số quan khách, gồm cả Đại sứ Cuba, một tướng lãnh, và một giám mục.
Ngồi xem tivi chiếu cảnh này buổi sáng hôm ấy, chúng tôi giật mình nhớ lại câu chuyện Tổng thống Thiệu kể chỉ mới gần một năm trước đó. Ông kể rằng vào ngày Quân Lực năm 1974 (20 tháng Sáu), ông rất ưu tư về nguy cơ bị hạ sát trong lúc duyệt binh. Mà cũng dễ thôi, vì ông phải ngồi ngay trên khán đài để duyệt từng đoàn quân với đầy đủ vũ khí các loại, trên không thì A-37, F5 bay rợp trời, làm sao mà kiểm soát cho hoàn toàn được là tất cả vũ khí đều không có nạp đạn như luật lệ về diễn binh quy định? Nếu có âm mưu ám sát thì chỉ cần gài một vài người ăn mặc quân phục đeo súng có nạp đạn đi lẫn vào đoàn quân diễn hành là đủ rồi. Trong Chương 21, chúng tôi có trích dẫn về dịp ông Thiệu đi duyệt binh một lực lượng năm ngàn nhân dân tự vệ đầy đủ võ trang đứng dàn chào. Ông nói với nữ ký giả Oriana Fallaci: “Muốn giết tôi thì chỉ cần một viên đạn đến từ một khẩu súng là xong.”
Đó là hè 1974. Đến mùa xuân 1975 thì có vụ ném bom Dinh Độc Lập.
Trong suốt thời gian lãnh đạo, ông Thiệu đã gặp nhiều nguy hiểm, nhưng vụ ném bom sáng ngày 8 tháng Tư là lần đầu tiên hành động sát hại trở nên rõ ràng và cụ thể. Lúc ấy tin đồn thổi về đảo chính âm ỷ từ ngày này sang ngày kia. Sau khi mất Đà Nẵng thì đêm đêm, chúng tôi cũng thấy có nhiều binh sĩ canh gác tại các hành lang Dinh Độc Lập. Dù sao, độ nguy hiểm của vụ ném bom tương đối cũng không cao lắm, vì khuôn viên tòa nhà này rất rộng, thả vài quả bom mà trúng đúng mục tiêu thì cũng khó: khi chiếc máy bay nhào xuống thả bom đợt đầu, hai quả đã rơi xuống khu sân vườn.
Tuy nhiên, chỉ hơn vài tuần sau đó, âm mưu ám sát lần cuối cùng đã có xác suất thành công rất cao. Xuýt nữa thì ông Thiệu đi về thế giới bên kia chứ không phải sang Đài Loan. Và nếu như vậy thì hằng năm Lễ Tưởng Niệm ông sẽ là ngày 25 tháng Tư chứ không phải 29 tháng Chín. Chuyện này thì cho tới ngày tạ thế, chính Tổng thống Thiệu cũng không biết rõ. Bản thân chúng tôi cũng chỉ mới biết gần đây.
Đảo Chính, Đảo Chính!
Theo như chuyện Tổng thống Thiệu kể lại và nghiên cứu thêm thì chúng tôi đếm ra cũng đã có tới ít nhất là sáu lần ông bị đe dọa, hoặc vì một lý do nào đó làm ông cảnh giác về đảo chính. Trước hết, để kiểm điểm lại những nguy hiểm trong thời gian ông lãnh đạo cho mạch lạc, chúng tôi xin nhắc lại vài trường hợp đã ghi trong cuốn KĐMTC:
•Năm 1968
Nguy hiểm đầu tiên là vào dịp bầu cử Tổng thống Hoa kỳ năm 1968. Sau vụ ông tháu cáy với Tổng thống Johnson vào giây phút cuối (tuyên bố ngay trước ngày tuyển cử là không tham gia Hòa đàm Paris) để giúp ông Nixon thắng cử, chính phủ Johnson phẫn nộ và Bộ trưởng Quốc Phòng Clark Clifford đã tính lật đổ ông. Từ đảo chính tới sát hại thì cũng không bao xa, như đã xảy ra cho vị tiền nhiệm của ông. Tác giả Seymour Hersh trong cuốn “The Price of Power,” sau khi đúc kết các tài liệu về vụ này đã tiết lộ rằng sau cuộc bầu cử 1968, chính ông Kissinger đã báo động cho phía Nixon về mưu đồ của Bộ trưởng Quốc Phòng Clifford và cảnh cáo: “Nếu ông Thiệu chịu chung một số phận với ông Diệm thì tất cả các dân tộc trên thế giới sẽ nghĩ rằng làm kẻ thù của Mỹ có thể là nguy hiểm, chứ làm bạn với Mỹ chắc chắn là chết”
TT Thiệu kể lại rằng trên đường từ Dinh Độc Lập tới Quốc Hội, ông hết sức lo ngại có thể ông bị CIA ám sát nếu như TT Johnson và Phó TT Humphrey biết trước được là ông sắp sửa bác bỏ kế hoạch hòa bình của Hoa Kỳ và phá hoại cơ hội thắng cử của Humphrey. “Và nếu họ muốn ám sát tôi thì cũng dễ thôi. Rồi sau đó cứ việc đổ cho Việt cộng hoặc là do ‘âm mưu đảo chính.’ ”
Khi kể về chuyện này, ông Thiệu cho rằng chính vì ông đã cưỡng lại áp lực của Mỹ lúc ấy mà kéo dài thêm đời sống của VNCH được gần sáu năm.
•Năm 1972
Vào mùa thu 1972, sau khi ông Thiệu nhất định không chấp nhận ký Hiệp Định Paris, TT Nixon áp đảo tinh thần ông bằng cách nhắn khéo về đảo chánh. Trong bức thư đề ngày 6 tháng 10, 1972, Nixon viết: “Tôi yêu cầu Ngài cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm 1963 và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968.”
Richard Nixon.
Biến cố năm 1963 là đảo chánh và ám sát Tổng Thống Diệm mà chính ông Thiệu đã tham dự. Còn biến cố 1968 thì đã đề cập trên đây: chính Nixon và Kissinger cực lực phản đối và cứu được ông Thiệu. Nhưng tới 1972 thì lại đến lần hai ông này đi theo con đường cũ. Về đe dọa của các ông Nixon – Kissinger thì hai chuyên viên trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia là Roger Morris và Anthony Lake đã viết cho Kissinger một phúc trình (ngày 21 tháng 10, 1972) trong đó có nói tới các phương cách lật đổ ông Thiệu. Sau này Morris xác nhận: “Tôi bảo Tony rằng hai đứa mình phải cho Henry hiểu rõ là ta sẵn sàng thanh toán Thiệu”. Chắc là có mặc cảm về những đe dọa ấy nên sau này ông Kissinger cũng đã viết cho ông Thiệu, vào đầu năm 1980: “Giá như ý định của Tổng Thống Nixon và của tôi là phản bội Ngài, thì chúng tôi đã có thể làm như thế từ đầu năm 1969 rồi.”
TT Thieu & Kissinger
•Năm 1973
Mặc dù có những lời đe dọa ghê gớm ấy, ông Thiệu vẫn chống đối không chấp nhận bản hiệp định. Nhưng khi ngày đăng quang nhiệm kỳ hai gần kề, Tổng thống Nixon muốn cho hình ảnh hòa bình chiếu sáng, ông không ngần ngại nói rõ hơn về việc đảo chánh. Ông viết cho ông Thiệu: “Tôi nhất quyết cho phê chuẩn bản Hiệp Định vào ngày 23 tháng Giêng, và sẽ ký vào ngày 27 tháng Giêng, 1973 tại Paris. Tôi sẽ làm việc này dù phải làm một mình… Kết quả không tránh khỏi sẽ là việc cắt viện trợ quân sự và kinh tế ngay lập tức, mà dù có sự thay đổi về nhân sự trong chính phủ của Ngài cũng không thể cứu vãn được…” (Thư ngày 14 tháng Năm, 1973).
Trong ngôn ngữ chuyên môn về mối bang giao Hoa Kỳ-VNCH, “thay đổi nhân sự” là câu nói nhẹ, đồng nghĩa với việc đảo chính. Năm 1963, khi việc chuẩn bị lật đổ TT Ngô Đình Diệm đang tiến hành ráo riết, TT Kennedy, trong một buổi phỏng vấn với Walter Cronkite trên đài CBS, đã nhắc tới nhu cầu “thay đổi nhân sự.” Thông điệp ấy đã là tín hiệu ‘bật đèn xanh’ từ cấp cao nhất để cho tướng lãnh đảo chính.
•Ngày Quân Lực 1974
Về nguy hiểm vào ngày này như đã đề cập trên đây, chúng tôi hỏi Tổng thống Thiệu là tại sao trong ngày 20 tháng Sáu những năm trước cũng có duyệt binh mà ông không lo, chỉ có năm 1974?
Ông Thiệu giải thích rằng sau Hiệp định Paris là tới lúc phải thành lập “Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc”, một hình thức chính phủ liên hiệp với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Cộng Sản. Tiến bộ về việc này thì hầu như không có gì, và cuộc đàm phán ở La Celle St. Cloud gần Paris thì bị ngừng từ ngày 16 tháng Tư, 1974. Ông Kissinger rất bất mãn và đang gây áp lực cho ông Thiệu phải làm lẹ việc này. Lúc ấy thì ông Kissinger rất mạnh vì ông Nixon như bị tê liệt vì vụ Watergate, sắp phải từ chức. Ông Thiệu biết rằng vào lúc ấy ông không là người lãnh đạo thích hợp với kế hoạch ‘hòa bình trong danh dự’ của hai ông Kissinger và Nixon, nên luôn đề cao cảnh giác về khả năng bị loại trừ.
Sự việc này có thể cắt nghĩa được là tại sao sau Hiệp định Paris ông cho thiết kế một trung tâm chỉ huy dưới lầu hầm Dinh Độc Lập. Đây là nơi được trang bị đầy đủ với máy phát điện, đường điện thoại riêng biệt, đài phát thanh, rađiô liên lạc với tướng lãnh, một cái giường nhỏ và một cái gối mây. Tổng thống Thiệu rất cẩn thận, luôn luôn sẵn sàng để đề phòng những trường hợp biến loạn có thể xẩy ra.
•Ngày tám tháng Tư, 1975
Một quả bom thật to chọc thủng bãi trực thăng trên nóc Dinh Độc lập, lọt xuống rồi nổ tung. Ông Thiệu vừa ngồi xuống bắt đầu ăn tô phở ở một bàn nhỏ ngoài hành lang trên lầu bốn, cận vệ vội tới đưa ông vào ngay thang máy để xuống lầu hầm. Đầu tháng 4 là thời gian có nhiều chống đối từ mọi phía đòi ông Thiệu phải từ chức. Chúng tôi nghe vậy cũng ái ngại, nhưng thấy ông vẫn bình tĩnh, chỉ hơi cáu kỉnh khi nghe báo cáo về một số quý vị thuộc đảng Dân Chủ tại Quốc Hội đã quay lại chống ông.
Về biến cố hôm ấy, bà Thiệu kể là trái bom lại rơi trúng ngay chỗ mỏng nhất của bãi trực thăng. Mùi khét tỏa ra khắp nơi khi những tấm thảm giầy bốc cháy dữ dội. Lúc ấy bà bị kẹt cứng trong phòng vì cháu bé người làm đang lo sắp xếp quần áo đã sợ quýnh lên, tay run lẩy bẩy, không tìm và mở được cái khóa vào cầu thang. Một lúc sau mới có sĩ quan đến giúp bà xuống hầm trú ẩn. Khói bay lên nghi ngút làm bà như ngạt thở.
•Ngày 21 tháng Tư, 1975
“Tôi sẽ nói cho ông Thiệu rõ tôi đã đi đến một kết luận vô tư là nếu ông ta không chịu từ chức thì các tướng lãnh dưới quyền ông sẽ bắt buộc ông làm điều này,” đại sứ Martin báo cáo (ngày 21 tháng Tư) cho Ngoại trưởng Kissinger về việc ông sẽ cố thuyết phục TT Thiệu từ chức. Ý ông đại sứ muốn nói là sẽ có đảo chính.
Thoát chết lúc ra đi
Sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, tân Tổng thống Hương vẫn để ông lưu lại trong Dinh Độc Lập. Nhưng rồi có nhiều áp lực đòi ông Thiệu phải rời khỏi Việt Nam, nếu không thì phía Cộng sản không chịu điều đình với “một chính phủ Thiệu không Thiệu.” Nhân dịp có tang lễ Tổng thống Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan, Đại sứ Martin báo cáo về Washington: “Ông Hương nói ông ta sẽ đề cử cả hai ông Thiệu và Khiêm làm Đại sứ Lưu động và gửi hai người sang Đài Loan mệnh danh là một phái đoàn đại diện ông để phúng điếu tang lễ ông Tưởng Giới Thạch. Tôi nghĩ rằng mọi chuyện đã được sắp xếp với phía Đài Loan.”
Thực ra, ngoài việc ông Thiệu phải ra đi để dễ hơn cho việc đàm phán về một giải pháp chính trị, Tổng thống Hương còn lo ngại cho sự an toàn của ông. Ông Đại sứ thêm: “Tổng thống Hương nói với tôi là ông ta lo ngại cho sự an toàn của cựu Tổng Thống Thiệu… Bởi vậy ông Hương yêu cầu chúng ta giúp cho ông Thiệu ra đi thật kín đáo và sớm nhất có thể.”
Ngoài những mưu toan nguy hiểm cho ông Thiệu từ các phe phái, Tổng thống Hương còn để ý tới một khía cạnh cá nhân: sự bất hòa giữa hai tướng lãnh Nguyễn Văn Thiệu và Dương Văn Minh. Sự bất hòa đã có mầm mống từ lâu và mọi người đều biết. Như chúng tôi đã đề cập tới trong Chương 11, chính ông Thiệu đã cố vấn Tổng thống Hương là chớ đề cử Tướng Minh làm Thủ tướng vì sẽ rất nguy hiểm. Việc ông Minh không ưa gì ông Thiệu thì cũng đã công khai. Bởi vậy vào giờ chót, Tổng thống Hương muốn đưa ông Thiệu ra khỏi Việt Nam trước khi ông Minh lên nắm chính quyền. Ông Martin viết: “Tổng Thống Hương nhất quyết là ông Thiệu phải ra khỏi nước đã rồi lúc đó ông ấy mới đi tới quyết định cuối cùng là trao quyền cho ông Big Minh.”
Đó là về sự cần thiết và thời điểm ra đi, nhưng còn cách ra đi thì làm sao cho được an toàn?
Chi tiết chuyến đi của hai ông Thiệu và Khiêm từ Bộ Tổng Tham Mưu ra phi trường Tân Sơn Nhất thì nhân viên CIA là Frank Snepp đã kể lại và chúng tôi cũng có đề cập tới trong cuốn KĐMTC. Ông Snepp và một nhân viên khác là Joe đã giấu vũ khí dưới chỗ ngồi trong xe vì lo sợ tái diễn vụ sát hại như trường hợp hai anh em Tổng thống Diệm.
Mới đây, câu chuyện từ lúc Tổng thống Thiệu rời bỏ Dinh Độc Lập tới Bộ TTM và ra phi trường được Thiếu tá Nguyễn Tấn Phận kể lại rất chi tiết. Ông Phận là một trong đoàn tùy tùng tám người (cuối cùng chỉ có bảy người) của Tổng thống Thiệu và bốn người của Thủ tướng Khiêm được Tổng thống Hương cho đi tháp tùng theo như yêu cầu của ông Thiệu. Diễn biến có thể tóm tắt như sau: “Vào khoảng 7 giờ 30 tối, Tổng Thống Thiệu thay bộ đồ bốn túi trong phòng ngủ rồi qua phòng nhỏ bên cạnh nghiêng đầu qua cửa sổ nhìn xuống. Dưới sân, bên cạnh thềm tam cấp một xe Mercedes mầu xanh đậm đã đậu sẵn. Người lái xe là Đại Tá Nhan Văn Thiệt. Thấy mọi việc đã sẵn sàng, Tổng thống Thiệu vội vã rút trong hộc tủ cây Browning đã lắp đạn, ông khóa chốt an toàn rồi cho vào túi áo. Ông xuống tầng trệt bằng thang máy. Khi cánh cửa mở ra thì Đại Tá Trần Thanh Điền đã túc trực tại đó. Ông vừa bước xuống bậc tam cấp thì lại cũng vào lúc có hai binh sĩ (tên là Sanh và Khình) xuất hiện làm ông giật mình. Thực ra là họ chỉ đến để đổi gác. Ông Thiệu và ông Điền lanh lẹ bước vào xe. Đại tá Điền ngồi bên phải của Tổng thống Thiệu ở băng sau. Như vậy là ông Điền đã ngồi vào chỗ chánh thức của Tổng thống và chịu làm Lê Lai cứu Chúa! Vừa ngồi vào xe, ông Thiệu hỏi ‘có mấy cây súng?’ Đại tá Điền đáp: ‘có hai cây, một cây dài, một cây ngắn.’”
Theo như vậy thì vào lúc đó Tổng thống Thiệu đã nhận thấy ông bị nguy hiểm trên đường tới Bộ Tổng Tham Mưu (ta nhớ lại là Tổng thống Diệm đã bị sát hại trên đường tới Bộ TTM). Việc ông Điền ngồi vào chỗ chính thức của Tổng thống thì cũng trùng hợp với câu chuyện ông Thiệu kể cho chúng tôi là khi đi xe tới dự nghi lễ bên Quốc Hội hay nơi khác, ông thường ngồi ngay bên cạnh tài xế lái xe chứ không ngồi chỗ dành cho tổng thống ở băng sau.
Khi đoàn xe tới phi trường Tân Sơn Nhất, Thiếu tá Phận kể lại là đã “giật mình khi nhận ra cả khu vực phi trường tối om. Dường như hệ thống điện hoàn toàn bị cắt… Đoàn xe chạy vòng qua khu dành riêng cho hãng Air America của cơ quan tình báo Mỹ. Khi sắp tới đường băng, tất cả xe đều tắt đèn di chuyển trong bóng đêm. Sau đó một chiếc máy bay lù lù hiện ra dưới chân trời nhờ đèn trong buồng máy cháy sáng, một loại máy bay giống như DC6. Khi tới gần chiếc máy bay, đoàn xe bất thần thắng gấp vì thấy có bóng người… Xe Tổng thống Thiệu bị bao vây bởi ba chiếc xe Chevrolet to lớn. Xa xa trong bóng đêm, xung quanh chúng tôi xuất hiện nhiều người Mỹ vạm vỡ, vận thường phục, súng M16 dựng đứng bên hông, trong thế tác chiến. Rồi hình ảnh ông Đại sứ Graham Martin hiện ra tại chân cầu thang máy như một vị thần hộ mạng.”
Chuyện này làm cho chúng tôi mới hiểu được tại sao khi nói về chuyến ra đi của Tổng thống Thiệu, Đại sứ Martin cứ nói úp úp mở mở là “Ông Thiệu đã ra đi trong điều kiện hết sức khó khăn,” và “chúng tôi đã để ý và cố gắng sắp xếp mọi chi tiết.”
Thì ra, mọi chi tiết được sắp xếp gồm cả việc cắt điện để phi trường tối om và việc đoàn xe phải di chuyển trong bóng đêm. Khi máy bay đáp xuống thì đã có sẵn một toán lính Mỹ canh gác để đề phòng những biến động có thể xẩy ra vào phút chót, thí dụ như việc ngăn chận không cho máy bay cất cánh. Vì sao như vậy? Vì một việc xẩy ra trước đó mấy ngày. Vào lúc 10 giờ đêm ngày Chủ nhật 20 tháng Tư t ại Tân Sơn Nhất, một nhóm binh sĩ với võ trang nặng bao vây, định ngăn chận chiếc C-141 của Mỹ chở người di tản không được cất cánh (xin xem Chương 7).
Thiếu tá Phận cũng kể lại là “Trung tá Nguyễn Phú Hiệp, phi công chiếc máy bay Air Viet Nam 727 có lệnh ứng trực, chuẩn bị sẵn sàng, chỉ dành riêng cho Tổng thống Thiệu sử dụng… và cũng vào thời gian này thì một vài đơn vị trưởng các đơn vị phòng thủ thủ đô, và các đơn vị đóng quân gần khu vực phi trường Tân Sơn Nhất lại được nghe dư luận rỉ tai là ‘ông Thiệu sẽ dùng Air Viet Nam để ra khỏi nước.’ ”
Thật rõ ràng là lệnh cho phi công Hiệp ứng trực chiếc máy bay Air Viet Nam 727 và tin đồn về ‘ông Thiệu sẽ dùng Air Viet Nam ra khỏi nước’ là những sắp xếp để đánh lạc hướng những kẻ mưu sát vì khi đó ông Martin đã nhận được nhiều thông tin tình báo về âm mưu sát hại ông Thiệu ở ngoài khơi.
Theo kế hoạch này thì chiếc máy bay Air Vietnam mà ông Thiệu định dùng để ra đi sẽ bị bắn rơi khi ra khỏi không phận Việt Nam. Bởi vậy, trong vòng bí mật, ông Martin đã gọi ngay chiếc máy bay riêng của mình từ Thái Lan sang Tân Sơn Nhất để bốc ông Thiệu. Để bảo mật tối đa thì dù có dùng điện thoại đặc biệt an toàn của tòa đại sứ để báo cáo về Tòa Bạch Ốc, ông Martin cũng vẫn không tiết lộ chi tiết mà chỉ nói mập mờ. Tuy nhiên, lúc tới sát nút rồi thì ông phải nói cho rõ.
Douglas C118 tương tực chiếc phi cơ CIA (Aie America) đã đưa hai ông Thiệu Khiêm và tùy tùng đi Đài Bắc
Mời độc giả theo dõi vài đoạn trong thông điệp ngày 25 tháng 4 (in kèm chương này) của đại sứ Graham Martin gửi về Tòa Bạch Ốc:
Số 250420 – Chỉ mình ông xem và qua đường giây Martin
Sàigòn số 0736 – FLASH (Cấp tốc)
Chuyển Ngay
Ngày 25 tháng 4, 1975
Gửi tới: Tướng Brent Scowcroft
(Phụ Tá An Ninh Tổng Thống Ford)
“Thông điệp này xác nhận câu chuyện tôi nói vòng vèo qua điện thoại vừa mới đây. Lúc muộn chiều hôm qua, Tổng thống Hương nói với tôi là ông ta lo ngại cho sự an toàn của cựu Tổng Thống Thiệu. Nói chung, dường như ông ta cũng đã biết về một thông tin mà chúng tôi đã nhận được nhiều lần, đó là có một số phần tử của Không Quân Việt Nam là những người có ý kiến hết sức chống đối Thiệu và Khiêm, đã nói rằng hai ông này sẽ không rời khỏi Việt Nam mà còn sống nguyên vẹn (gạch dưới là do tác giả). Chúng tôi biết rằng những phần tử này đang để ý chiếc máy bay thường dùng để chuyên chở các nhân vật cao cấp VIP của chính phủ đi ngoại quốc…
“Tôi đã xếp đặt với Tướng Hunt ở NKP (Nakhom Phanom, Thái Lan) để ông ta gửi một chiếc C-118 tới Sàigòn sẵn sàng chiều nay. Chúng tôi cũng sẽ sắp xếp hết sức kín đáo để đưa hai ông Thiệu và Khiêm lên máy bay và cất cánh thật nhanh. Chúng tôi đã suy nghĩ về việc này và chúng tôi chắc chắn rằng sẽ có thể làm hết sức nhanh để nếu có sự can thiệp nào thì chiếc máy bay đó cũng đã (cao bay xa chạy) ra quá tầm có thể truy kích được rồi…
“Bởi vậy, trừ phi có chỉ thị ngược lại và ngay tức khắc từ chính ông Ngoại Trưởng, tôi sẽ tiến hành theo như trình bày trên đây. Ông Bộ trưởng không cần phải có hành động nào vào lúc này, trừ khi có người đặt vấn đề (tại sao lại) dùng máy bay quân sự, một điều tôi nghĩ khó có thể xẩy ra.…
Trân trọng
Martin
Về việc này chúng tôi có hỏi Đại tá Nguyễn Quốc Hưng hiện ở Salem, Oregon. Khi đó, ông là Phó Trưởng phòng Đặc trách Khu trục, thuộc Phòng Tham Muu Phó Hanh Quan tại Bộ Tư lệnh Không quân. Ông Hưng xác nhận là có chuyện này va nay vẫn còn nhiều nhân chứng. Chúng tôi hy vọng quý vị còn lại trong Không quân có thể giúp thêm chi tiết xác thực, nơi đây thì chỉ có thể trình bày lại ý kiến của Đại tá Hưng.
Ông Hưng cho biết là có một nhóm trong Không Quân thực sự có âm mưu này và đã theo sát chiếc máy bay Boeing 727 là chiếc lãnh đạo cao cấp thường dùng trong những chuyến đi xuất ngoại. Sau cùng thì họ giao cho một sĩ quan ở Cần Thơ thuộc Sư Đoàn 4 Không Quân lo việc này. Ở phi trường Cần Thơ có loại máy bay khu trục A-37 và cả phản lực F5. Kế hoạch là tại Tân Sơn Nhất có những người được chỉ định theo rõi thật sát các chuyến bay, đặc biệt là chiếc Air Vietnam Boeing 727. Khi nào thấy hai ông Thiệu và Khiêm lên máy bay thì sẽ báo cho Cần Thơ để phản lực cất cánh bay thẳng ra khơi và sẽ bắn rơi chiếc máy bay chở ông Thiệu và ông Khiêm, ở khoảng 100 cây số cách bờ biển.
Nếu như vậy thì cũng chẳng có tang tích, chẳng có chứng cớ gì về vụ sát hại. Trừ một số người rất nhỏ trực tiếp dính líu thì không ai biết tin tức gì về việc này. Lúc ấy là đêm 25 rạng ngày 26 tháng Tư rồi, khi dầu sôi lửa bỏng đã lên tới cực điểm, mọi người chỉ còn có thể lo cho chính bản thân, nên cũng chẳng ai để ý tới chuyện gì xảy ra cho ông Thiệu.
Đại tá Hưng cũng cho biết lúc ấy ở ngoài khơi cũng có những máy bay luôn luôn thay nhau theo dõi. Chúng tôi hỏi ông xem nhóm người nào ra lệnh cho phi công ở Cần Thơ? Ông trả lời là do một phe nhỏ chống ông Thiệu ở ngay Bộ Tư Lệnh Không Quân. Đại tá Hưng thêm rằng: về vấn đề đảo chính nói chung thì chính hai Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan đều không đồng ý và đã khuyên không được làm như vậy.
Sau cùng thì hai ông Thiệu, Khiêm lại không đi chuyến Boeing 727 mà đi chiếc C-118 của Đại sứ Martin. Đại tá Hưng kể là vài ngày hôm ấy cứ thấy Đại sứ Martin ra ra vào vào phi trường Tân Sơn Nhất.
Tối muộn cùng ngày 25 tháng 4, 1975, ông Martin báo cáo về Tòa Bạch Ốc:
Số 251510Z – Chỉ mình ông xem và qua đường giây Martin
Sàigòn – C738 – Cấp tốc
Chuyển ngay
Ngày 25 tháng 4, 1975
Gửi tới: Tướng Brent Scowcroft
Người gửi: Đại sứ Graham Martin
Tham chiếu: Sàigòn 0736
1. Vào lúc 9 giờ 20 phút chiều nay, một chiếc C-118, có đuôi số 231 đã cất cánh từ Tân Sơn Nhất cùng với cựu Tổng thống Thiệu và cựu Thủ tướng Khiêm. Họ đã bay sang Đài Loan nơi mà anh ông Thiệu làm đại sứ VNCH. Công việc sắp xếp rất xuôi xẻ. Tôi đã tháp tùng họ lên máy bay và tôi cho rằng sự vắng mặt của họ ở đây sẽ giảm bớt được sự xôn xao có thể xẩy ra.
2. Chúng tôi sẽ không bình luận gì về việc này ở đây. Phi hành đoàn từ NKP (Nakhon Phanom, Thái Lan) bay chiếc C-118 của tôi tới Davis-Montohn và tới nơi nghĩa trang. Tôi nghĩ rằng hai ông cũng sẽ không tuyên bố gì cả trừ phi và cho tới khi chuyện này lộ ra ở Đài Loan.
Trân trọng,
Martin
Khi chiếc máy bay có đuôi số 231 sửa soạn cất cánh, Đại sứ Martin đã có mặt tận cửa máy bay để tiễn ông Thiệu. Dù buồn thảm và cam chịu số phận, ông Thiệu vẫn đi thủng thẳng, cố giữ phong độ. Ông quay lại cám ơn ông Martin đã dàn xếp chuyến đi. Với một giọng xúc động, ông Martin đáp lại: “Thưa tổng thống, đó là điều tối thiểu tôi có thể làm. Xin tạm biệt và chúc ngài may mắn.”
Nhìn lại lịch sử thì thấy ông Thiệu đã thật may mắn. Không những chính ông, ông Khiêm mà cả chuyến Air Vietnam 727 cũng may mắn. Nếu như không có sự can thiệp của ông Martin thì những người khác cũng đã cùng chịu chung một số phận. Đó là phi công Hiệp, các nhân viên khác trong phi hành đoàn, và 12 người trong phái đoàn của cựu tổng thống và thủ tướng, họ đều đã bị chôn vùi dưới đáy biển cùng với chiếc Boeing 727. Trong số này có Đại tá Cầm, Chánh Văn Phòng và là người chúng tôi làm việc gần gũi, có Đại tá Đức, người đã ôm hồ sơ mật Dinh Độc Lập đưa đến tư gia trao chúng tôi vào đêm ngày 22 tháng Ba. Rồi cả Thiếu tá Phận, người vừa kể lại câu chuyện về những ngày cuối của TT Thiệu ở Sàigòn. Những người khác gồm mấy sĩ quan gần gũi Tổng thống Thiệu (Đại tá Điền, Thiệt; Trung tá Chiêu, Bác sĩ Minh, Đại úy Hải, và binh sĩ Nghị); và phái đoàn của Thủ tướng Khiêm (Trung tá Châu, Thiếu tá Thông, và ông Đăng Vũ).
Nguyễn Tiến Hưng
Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013
Ngày Dài Trên Quê Hương
Ngày Dài Trên Quê Hương
TCS
Một người già trong công viên
Một người điên trong thành phố
Một người nằm không hơi thở
Một người ngồi nghe bom nổ.
Một người ngồi hai mươi năm
Nhìn hoả châu đêm rực sáng
Đàn trẻ nhỏ quen bom đạn
Người Việt nằm với vết thương.
Mẹ Việt nằm hai mươi năm
Xương da mềm
Đợi giờ sông núi thiêng
Một maù vàng trên da thơm
Nên giữ gìn màu lúa chín quê hương.
Một ngày dài trên quê hương
Ngày Việt Nam hoang tàn quá
Một ruộng đồng trơ đất đỏ
Một đàn bò không luống cỏ.
Một ngày dài trên quê hương
Người Việt Nam quên mình sống
Một ngục tù nuôi da vàng
Người Việt nằm nhớ nước non.
Ngày thật dài trong âu lo
Rồi từng đêm bom đạn phá
Người Việt nhìn sao xa lạ
Người Việt nhìn nhau căm thù.
Một ngục tù trên quê hương
Người Việt Nam quên nòi giống
Người từng ngày xây uất hận
Rồi từng ngày nát dấu bom.
Mẹ Việt nằm hai mươi năm
Xương da mềm
Đợi giờ sông núi thiêng
Một màu vàng trên da thơm
Nên giữ gìn màu lúa chín quê hương.
Một ngày dài trên quê hương
Bầy trẻ thơ nay đã lớn
Một người già lo âu nhìn
Người già chờ cơn gió lặng .
Một người ngồi hai mươi năm
Cuộc buồn vui ly rượu đắng
Người Việt nào da không vàng
Mẹ Việt nào nhớ xác con...
TCS
Một người già trong công viên
Một người điên trong thành phố
Một người nằm không hơi thở
Một người ngồi nghe bom nổ.
Một người ngồi hai mươi năm
Nhìn hoả châu đêm rực sáng
Đàn trẻ nhỏ quen bom đạn
Người Việt nằm với vết thương.
Mẹ Việt nằm hai mươi năm
Xương da mềm
Đợi giờ sông núi thiêng
Một maù vàng trên da thơm
Nên giữ gìn màu lúa chín quê hương.
Một ngày dài trên quê hương
Ngày Việt Nam hoang tàn quá
Một ruộng đồng trơ đất đỏ
Một đàn bò không luống cỏ.
Một ngày dài trên quê hương
Người Việt Nam quên mình sống
Một ngục tù nuôi da vàng
Người Việt nằm nhớ nước non.
Ngày thật dài trong âu lo
Rồi từng đêm bom đạn phá
Người Việt nhìn sao xa lạ
Người Việt nhìn nhau căm thù.
Một ngục tù trên quê hương
Người Việt Nam quên nòi giống
Người từng ngày xây uất hận
Rồi từng ngày nát dấu bom.
Mẹ Việt nằm hai mươi năm
Xương da mềm
Đợi giờ sông núi thiêng
Một màu vàng trên da thơm
Nên giữ gìn màu lúa chín quê hương.
Một ngày dài trên quê hương
Bầy trẻ thơ nay đã lớn
Một người già lo âu nhìn
Người già chờ cơn gió lặng .
Một người ngồi hai mươi năm
Cuộc buồn vui ly rượu đắng
Người Việt nào da không vàng
Mẹ Việt nào nhớ xác con...
Tin nổi không ? TTGDTX TB : Scandal dồn dập ? Hic!
Giám thị “gạ tình lấy điểm”: Loại bỏ “con sâu” bệnh hoạn!
Tháng Tư 28, 2013
Hòa An
Đọc những dòng tin nhắn ông T.T.B gửi cho các nữ sinh, mới thấy sự bệnh hoạn của một con quỷ đội lốt thầy giáo.
Thuở nhỏ, tôi cũng như nhiều bạn cùng
lứa, luôn ao ước sau này lớn lên được làm cô giáo. Hình ảnh người thầy,
người cô trong mỗi đứa trẻ luôn sáng lung linh. Dù giờ đây không thực
hiện được ước mơ thuở bé, nhưng những kỷ niệm về thầy cô luôn là động
lực thôi thúc chúng tôi sống tốt.
Tôi còn nhớ
mãi hình ảnh mẹ tôi lọc cọc chiếc xe đạp cà tàng, chở tôi đi hàng chục
cây số để xem điểm thi vào lớp 5 trường chuyên của huyện. Xem điểm xong,
hai mẹ con tôi chưa kịp mừng thì nỗi lo ập đến vì làm sao tôi có thể
học được ở đây khi nhà quá xa, không thể ngày nào cũng đi học bằng xe
đạp. Còn trọ học là điều khá xa xỉ đối với tôi thời bấy giờ, một phần vì
điều kiện gia đình, một phần vì thời đó tìm được một nơi trọ thật không
dễ dàng.
Hai mẹ con đang tần ngần thì có một phụ
nữ trạc tuổi mẹ tôi lại gần và giới thiệu là cô giáo của trường, muốn
được giúp đỡ hai mẹ con tôi. Mẹ tôi ngần ngại vì sợ làm phiền cô giáo,
còn tôi lúc ấy mừng lắm. Không biết hai người nói gì với nhau, nhưng
cuối cùng tôi đã được học ở ngôi trường mà mình hằng mơ ước.
Ở trọ nhà cô giáo, tôi thấy mình may mắn
vì được cô thương yêu, dạy dỗ như những người con của cô. Thời bé tôi
còn mải chơi, không nhớ hết những kỷ niệm về cô, nhưng với mẹ tôi, mỗi
khi nhắc đến ngày ấy, bà vẫn còn rưng rưng. Bà kể, thời ấy trẻ con không
có nhiều quần áo, mỗi anh em tôi chỉ có một cái áo len để chống rét.
Hôm tôi đi trọ học, mẹ để nhầm áo len của đứa em vào túi quần áo của
tôi. Đúng hôm trời trở rét đột ngột, bà đang lo lắng vì con không có áo
rét thì bỗng thấy cô giáo mặc mỗi tấm áo mong manh, sắc mặt nhợt nhạt
đường xa và rét, đem chiếc áo len của em tôi về để đổi lại chiếc áo của
tôi. Đó chỉ là một trong rất nhiều kỷ niệm về cô mà đến mấy chục năm
sau, vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức của mẹ tôi.
Thời nào cũng vậy, hầu hết các thầy cô
giáo luôn tâm huyết với sự nghiệp trồng người mà họ đã chọn và hết lòng
vì học sinh. Hình ảnh của những người thầy giáo, cô giáo luôn là tấm
gương sáng không chỉ cho các thế hệ học sinh mà cả xã hội soi vào.
Có biết bao thầy cô giáo đang ngày đêm
thầm lặng, miệt mài dạy dỗ cho những thế hệ học sinh trưởng thành. Có
nhiều thầy giáo, cô giáo có hoàn cảnh vô cùng khó khăn, như thầy giáo
Nguyễn Hữu Thắng ở xóm 2, xã Nam Xuân, Nam Đàn, Nghệ An, bị bại liệt;
thầy giáo Khanh Rong bị cụt 2 tay và mù một mắt ở THCS Thạnh Trị (xã
Thạnh Trị, huyện Thạnh Trị, Sóc Trăng)… nhưng vẫn yêu nghề, vẫn là những
người thày giỏi, là tấm gương sáng cho học trò.
Không ít thầy cô sẵn sàng từ bỏ điều kiện
thuận lợi ở thành phố, chấp nhận những thiệt thòi trong cuộc sống
riêng, tự nguyện đến những nơi khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới,
hải đảo để chăm lo cho sự nghiệp trồng người.
Những hình ảnh đẹp đẽ đó đã tạo dựng niềm tin to lớn và sự trân trọng của cả xã hội.
Vậy mà, trong xã hội hiện nay, vẫn còn
lọt vào môi trường sư phạm trong sáng đó những kẻ mang danh nhà giáo,
làm những chuyện xấu xa, ô uế. Mọi người mới tạm quên đi những kẻ sa đọa
một thời đội lốt thầy giáo như Sầm Đức Sương thì vừa đây, ông
giám thị T.T.B của Trung tâm giáo dục thường xuyên quận Tân Bình (TP
HCM) lại gây ra chuyện tày trời là nhắn tin rủ nữ sinh “làm chuyện người
lớn” để đổi lấy điểm.
Đọc những dòng tin nhắn ông T.T.B gửi
cho các nữ sinh, mới thấy sự bệnh hoạn của một con quỷ đội lốt thầy
giáo. Lại càng ghê tởm khi nghĩ đến hình ảnh ông ta hàng ngày đứng trước
hàng trăm em học sinh để rao giảng về những lời lẽ tốt đẹp.
Những kẻ suy đồi đạo đức như vậy chắc
chắn sẽ chịu hình phạt của luật pháp và cao hơn cả là bản án lương tâm
dành cho họ. Nhưng qua những sự việc như thế này, nhiều người cũng không
thể không trăn trở về môi trường giáo dục hiện nay. Trong đó có việc
ngành Giáo dục đã thực sự nghiêm túc, trách nhiệm trong việc đào tạo,
tuyển dụng những người “làm thầy” của cả xã hội?.
Không phải đến bây giờ và đến chuyện ông
T.T.B làm bậy thì nhiều người mới cảm thấy bất an. Mà sự bất an này đã
diễn ra nhiều năm nay, thậm chí là cả chục năm trước về nhiều vấn đề
trong giáo dục, nhất là việc giáo dục kiến thức, nhân cách cho học sinh
và cả nhân cách của người làm thầy.
Những chuyện bất cập đang diễn ra trong
ngành Giáo dục, có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính vẫn là từ
con người. Nếu thực sự trong môi trường này chỉ toàn những người có tâm,
chăm lo cho sự nghiệp “trồng người” thì chắc chắn không có nhiều chuyện
tiêu cực xảy ra như hiện nay, ngành Giáo dục không phải ngày đêm giám
sát việc dạy thêm học thêm, nhiều trường sẽ không chạy theo thành tích
thay vì bồi đắp kiến thức cần thiết cho các thế hệ mai sau. Chắc chắn,
cũng không có chuyện ngay từ lớp 1, học sinh đã được học cách nói dối
rằng: đi học thêm, nhưng khi có người hỏi thì trả lời “không học!”… Và
cũng sẽ không có những chuyện đau lòng như vừa qua là giám thị gạ học
sinh “đổi tình lấy điểm”…
Giáo dục là một môi trường hết sức đặc
biệt, ảnh hưởng đến hầu hết mọi người trong xã hội, nhất là những thế hệ
tương lai của đất nước. Mỗi người làm thầy, làm cô đều có sự ảnh hưởng
vô cùng to lớn đối với sự phát triển nhân cách, trí tuệ của các em học
sinh.
Sinh thời, Bác Hồ đã từng dạy “Có tài mà
không có đức là người vô dụng”. Vì sự phát triển của các thế hệ tương
lai, rất mong ngành Giáo dục thực sự quan tâm trong việc tuyển chọn,
sàng lọc đội ngũ những người làm thầy, để thực sự có được những người có
tài, có đức, hết lòng chăm lo cho sự nghiệp trồng người./.
Theo Blog nhà Hến/VOV
" Vậy thì cái "Nửa mình còn trong lửa nước sôi" là cái nửa nào chứ ? " (Ks ĐNH)
"Ðường giải phóng mới đi một nửa" *
Nửa mình kia (quyết) trấn lửa, nước sôi
Thân nay trên dưới khắp nơi
Từ ấy giải phóng, phỏng ... thôi ... dính chùm .
Bà mẹ Việt Bắc còn mừng ?
"Ôi trời, sướng quá" núi rừng còn vui ... ?
Gió lộng, giọng thơ bồi ... hồi :))
Khúc hát Lê-nin
Ôi, lò thép chảy và nguồn điện lực
Với Xô Viết, làm thiên đường sáng rực!
Nhưng sao lại chẳng chịu tin ?
Thời đại ta đã vất (vứt)
Một con người ... độc (ác) nhất !
Nhớ khi xưa Ra trận
Không có những dòng thơ tươi xanh
Chỉ thấy rùng rùng những dòng thơ lửa cháy
Việt Nam máu và hoa
Nay vẫn đầy hoa và máu
Khuyến mãi thêm mười sáu chữ vàng
Và bốn tốt ...
Không có một tiếng đờn * u buồn khuấy động
Sao run rẫy đất trời ?
Câu hỏi cứa nát lòng người :
Việt Nam tôi đâu ?
Việt Nam tôi đâu ?
???
---------
* Thơ TH (Ba mươi năm đời ta có Đảng )
*Mới bình minh đó, đã hoàng hôn
Ðang nụ cười tươi, bỗng lệ tuôn
Ðời thường sớm nắng chiều mưa vậy
Khuấy động lòng ta biết mấy buồn !
(Một tiếng đờn - Tố Hữu)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)