Vũ khí sĩ phu * có trọng lượng đáng nễ, tương đương thiên binh vạn mã .
Minh triết mà chẳng biết mình, biết người, không dám nhìn thẳng vào sự thật, sao gọi là minh triết ?
---
* Hiểu theo cả 2 nghĩa
Hà Sĩ Phu - Bàn về hiệu quả thực tế của những “vũ khí” giữ gìn Biển Đông
(Tham luận gửi Trung Tâm Minh Triết)
Trước hết xin cảm ơn anh Nguyễn Khắc Mai, giám đốc Trung tâm Minh triết đã có thư mời tôi đến dự cuộc họp mặt của các tác giả có công trình về chủ quyền Biển Đảo Việt Nam.
Tôi rất muốn có mặt để trực tiếp được nghe ý kiến các tác giả đã dày công nghiên cứu sưu tầm tư liệu về chủ quyền nước ta tại Hoàng Sa - Trường Sa và chia sẻ quyết tâm sắt đá giữ gìn Biển Đảo, nhưng do điều kiện sức khỏe không ra Hà Nội dự được, tôi xin có một lời bàn ngắn ngủi gửi đến cuộc họp mặt, với sự hiểu biết còn hạn hẹp, cũng mong góp phần nhỏ vào cuộc trao đổi thân mật và rất có ý nghĩa này.
Trước hết, dù là vũ khí chính trị, vũ khí ngoại giao, quân sự, lịch sử, văn hóa, dân vận…xin gọi chung là “vũ khí”.
Về vũ khí lịch sử, chúng ta đã sưu tầm được những văn bản, những bản đồ, hiện vật chứng minh từ hàng thế kỷ nay Hoàng Sa-Trường Sa đã thuộc vùng quản lý của tổ tiên ta, trong khi chính bản đồ của Trung Quốc từ năm 1904 đã cho thấy ranh giới của họ chỉ đến đảo Hải Nam, những tư liệu lịch sử ấy rất quý giá, kết tinh tấm lòng và công sức của nhiều người, như những vũ khí rất có giá trị. Đã có nhiều tác giả, nhiều công trình, nhiều sáng kiến đáng tôn vinh trong buổi gặp mặt này, nhưng để các “vũ khí” phát huy được hiệu quả mong muốn, tôi xin bổ sung mấy điều sau đây:
1/ Phải có chỗ cho chứng cứ phát huy
Ta nói đó là những chứng cứ “không thể tranh cãi” nhưng không thể tranh cãi là trong một môi trường có CÔNG LÝ và NHÂN TÂM, chứ vô tác dụng trước một kẻ đã quyết một bề truyền kiếp xâm lược, chỉ cãi chày cãi cối, ngổi xổm lên Nhân tâm và Công lý, những lời thiện tâm chỉ là giả vờ để che mắt và bịt miệng. Vậy làm thế nào để buộc đối phương phải đối mặt với Công lý và Nhân tâm?
- Về Công lý, muốn buộc đối phương phải đối mặt cần đưa các bằng chứng ấy lên Tòa án quốc tế, mà Philippines đã cho ta một tấm gương. Chủ trương đối thoại tay đôi với kẻ mạnh đang ức hiếp mình chính là vô tình hay hữu ý tiếp tay cho nó “ngọt ngào thôn tính” đất nước mình. Không chống được sai lầm này thì những chứng cứ của ta cũng vô tác dụng.
- Về nhân tâm, nếu song song với những chứng cứ lịch sử, mà nhà nước lại bỏ tù những người lên tiếng chống kẻ xâm lược thì khác nào tạo ra một môi trường phản nhân tâm, cả nhân tâm trong nước và nhân tâm thế giới, còn ai tin vào kế sách chống xâm lược của một nhà nước như thế? Trong một môi trường thiếu vắng sức mạnh của Nhân tâm như vậy thì chứng cứ lịch sử phỏng có giá trị gì?
2/ Giá trị thời gian trong chuỗi chứng cứ
Trong môi trường của Nhân Tâm và Công Lý thì những chứng cứ lịch sử càng có niên đại xa xưa càng có giá trị, càng đáng tin cậy, càng thuyết phục lòng người. Trái lại trong môi trường “chày cối” và ức hiếp thì dẫn chứng càng xa xưa càng không đáng để ý, càng thua kém những sự thực đang diễn ra trước mắt.
Để dễ hiểu ta lấy ví dụ vườn tược nhà anh A bị anh B láng giềng bày mưu chiếm lĩnh. Anh A đem gia phả nhà mình ra chỉ cho tên hàng xóm thấy chủ quyền của A. Tên hàng xóm chẳng hề nao núng, liền bảo: Tôi cóc cần biết đây là của cụ 5 đời hay 10 đời của anh, đấy là việc của gia đinh anh, chỉ biết mới năm ngoái chính bố anh lúc còn sống đã xác nhận khu vườn ấy là của tôi rồi, có chữ ký của bố anh rành rành ra đây! Con cháu đã đem gán nợ cho người ta rồi còn giở gia phả làm chi cho rách việc?
Vì thế công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 là một căn cứ quan trọng để họ khẳng định ý kiến của Việt Nam đã chấp nhận Hoàng Sa - Trường Sa thuộc lãnh hải Trung Quốc, bất chấp những bằng chứng xa xưa. Muốn giữ Biển Đảo thì phải phủ định giá trị pháp lý của Công Hàm ấy là việc cần phải làm. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, những ký kết, những nhượng bộ và những thái độ im lặng (hay chỉ phản đối lấy lệ) trước những hành vi xâm lược diễn ra sau Công Hàm 1958, từ cuộc cầu hòa ở Thành Đô đến nay, của đảng và nhà nước Việt Nam còn mang giá trị cam kết cao hơn nhiều so với Công Hàm 1958. Cứ thế, bước đi sau còn tệ hơn bước đi trước. Ta biết trong chuỗi các văn bản, chuỗi các ứng xử, các cam kết thì cái sau luôn có giá trị hơn cái trước, nhưng những cam kết bí mật những năm gần đây giữa hai ĐCS thì dân lại không được biết, chúng ta không được biết!!!
3/ Mặt trận giữ nước phải liên hoàn
Tóm lại việc trưng ra những chứng cứ lịch sử phải đi kèm với việc đưa ra Tòa án quốc tế, với sử dụng sức mạnh đa phương, với việc trả tự do và vinh danh những người đã dũng cảm lên tiếng chống bọn xâm lược mới, với việc không chấp nhận thủ đoạn 16+4 (là thứ yêu thương giả để cắn xé thật)…nếu không thì những chứng cứ lịch sử quý giá mà ta tìm được cũng chỉ để cho ta “nhâm nhi” nâng chén tự sướng với nhau trong khi kẻ cướp cứ yên chí lấn dần bờ cõi! Đất nước sẽ mất dần trong sự đã rồi, trong sự lãng quên của cộng đồng thế giới vốn đầy rẫy cảnh cá lớn nuốt những con cá bé ham mồi, dại dột và cô độc.
Nếu không đấu tranh từng bước liên hoàn với những hoạt động trong và ngoài nước như trên đề cập thì tôi e công phu sưu tập vũ khí lịch sử của chúng ta chẳng những bị uổng phí, mà biết đâu nếu nạn Bắc thuộc trở lại (dưới cái áo khoác mới) thì những chứng cứ quý giá ấy của dân tộc Việt Nam mình sẽ bị thu sạch, đốt sạch hoặc mang về Bắc quốc như lịch sử nghìn năm Bắc thuộc còn ghi!
4/ Phải giữ nước trước tiên bằng “vũ khí chính trị”
Sau cùng xin nói: Đánh giặc giữ nước tất nhiên cần vũ khí quân sự. Nhưng vũ khí nào cũng cần một bộ phận châm ngòi “phát hỏa” như cò súng, ngòi nổ hay các nút bấm… Những nút bấm điều khiển ấy luôn thuộc về thuộc bộ phận CHÍNH TRỊ!
Kế hoạch giữ nước trước hết là phải giữ nước từ Chính trị và bằng Chính trị. Một nền chính trị ưu việt để giữ nước mạnh hơn mọi vũ khí. Một quyết định chính trị khôn ngoan có thể hiệu quả hơn hàng tỷ đô la mua vũ khí. Trong trường hợp ngược lại, một chữ ký có thể làm vô hiệu toàn bộ lực lượng vũ trang của một quốc gia. Nếu không biết những nút bấm thuộc về đâu thì tàu ngầm, tên lửa, máy bay hiện đại mua của Nga của Mỹ…cũng đều vô dụng, có khi còn tự hại mình.
Xét về giá trị trong đấu tranh thì chính trị cao hơn quân sự, thực tại cao hơn quá khứ, hành động cao hơn ngôn từ, thực tế cao hơn mơ tưởng…Chỉ khi nền chính trị tạo được sự đồng thanh cả nước một lòng chống giặc, từ người lãnh đạo cao nhất, đến các lực lượng võ trang, đến các trí thức và mỗi người dân, với sự hỗ trợ của thế giới văn minh, thì khi ấy những “vũ khí” trong đó có vũ khí quân sự và vũ khí lịch sử của chúng ta mới được sử dụng có hiệu quả, mới có ý nghĩa. Một khi nhà nước đã “hợp tác chiến lược” với giặc Bành trướng bằng kế sách 16+4, tức cái gọng kìm rất mềm ngày càng khóa chặt, trong khi đất nước và nhân dân chính là đối tượng xâm hại của kế sách rất hiểm đó, thì không hiểu những vũ khí sẽ nằm trong tay ai, ai sẽ sử dụng, sử dụng để làm gì, hỏi ai mà không lo lắng?
Tôi tin tất cả chúng ta trong cuộc gặp mặt này đều hiểu được điều đơn giản ấy. Điều đơn giản ấy chắc người cầm quyền cũng thừa sức nhận ra, nhưng vì sao không muốn thoát ra hoặc không thoát ra được, trả lời câu hỏi này chắc hẳn cần những bài viết và những cuộc thảo luận khác nữa.[*].
Xin gửi đến cuộc họp mặt một lời thân thiết và trân trọng. Mong được tiếp nhận những cao kiến từ cuộc họp mặt thân mật này. Vô cùng cảm ơn.
H.S.P - Đà Lạt ngày 30/7/2013
_________________________________________________
[*] Xin tham khảo bài “Giải Cộng nhi thoát”.
----
Bình loạn :))
1/ Phải có chỗ cho chứng cứ phát huy
2/ Giá trị thời gian trong chuỗi chứng cứ
3/ Mặt trận giữ nước phải liên hoàn
4/ Phải giữ nước trước tiên bằng “vũ khí chính trị”
* 1+ 2+3+4 => Bác HSP biết , dĩ nhiên những người CS cũng biết. Bởi những cái đó không mới, đều là những ngón nghề sở trường của CSVN, nhưng người CS không làm điều đơn giản ấy mặc dù họ - những người cầm quyền - thừa sức nhận ra, nhưng vì sao không muốn thoát ra hoặc không thoát ra được ? Hãy nhìn những gì người CS làm, và sắp xếp chuỗi hành động trên theo thứ tự thời gian , thì ai cũng thấy được toàn cảnh , từ đó suy ra đáp án.
(Lưu ý : cần phân định cái nào là động tác thật / giả:)
http://www.minhtrietvietnam.com/vi-VN/news/35-cwd/quan-diem-cua-trung-tam-minh-triet-viet-ve-su-banh-truong-cua-trung-quoc-o-bien-dong
Trả lờiXóaĐọc bài viết về quan điểm trên thì em cũng đồng ý .
XóaEm chỉ không thích kiểu lập luận tít mù nó lại vòng quanh của nhóm Minh Triết Việt ở một số vấn đề cơ bản .
Em không thích lối biện luận lòng vòng cố tình lẫn lộn tù mù của nhóm Minh Triết Việt này, ví dụ như về nhiều vấn đề : Minh triết Hồ Chí Minh, VỀ MINH TRIẾT CÁC MÁC HAY NHỮNG NGHỊCH LÝ 'CỘNG SẢN" ... Bởi những vấn đề nói trên , nó đã như ánh sáng giữa trời quang ban ngày, khỏi bàn cãi . Phần lớn nhân loại trên quả địa cầu này họ đã tiến hóa từ lâu. Không cần phải đi vào vòng luẫn quẫn quá sâu, quá lâu để rồi sau một thời gian đắm chìm trong đêm trường trung cổ (như ở VN), mới bày đặt chiêm nghiệm, nghiên cứu, mới minh triết nọ nọ kia kia rồi hê lên Euréka... Euréka ... những cái mà đối với người khác đã từng là cái có thật, là cái đã hiện hữu trong thực tế khách quan . Họ không dám thẳng thắn đối diện cái sự thật là những người CSVN đã cố tình dẫn dắt cả nước đi tìm cái thiên đường mù. Chính họ - họ phá hoại tanh banh hết rồi lại phải quay về lối cũ , mà bảo rằng đổi mới (thật ra là phải thay đổi lại y như cũ). Vì họ không có đủ lòng tự trọng và dũng khí thừa nhận mọi sai lầm của họ. Họa có là điên mới không nhận ra : làm sao có thể tìm kiếm một sự việc gì , một lý tưởng gì tốt đẹp được ? trên cái khởi đi , cái bắt đầu từ những mầm mống độc ác, tàn bạo và xấu xa ??? (ví dụ tiêu diệt hết giai cấp đối kháng, trau dồi đạo đức cách ... cái mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, phát động đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, làm chủ tập thể, thế giới đại đồng ..v v...). Những thứ lý luận chính trị này - ngay từ những ngày đầu bị bắt buộc học tập, tiếp xúc, những con người tự do biết suy nghĩ độc lập không thể nào tiêu hóa nổi .
Ngay như về sự bành trướng của Trung Quốc thì dân Việt ta đã nếm trãi cũng không biết bao nhiêu kinh nghiệm đau thương từ trong quá khứ dựng nước và giữ nước của ông cha, với một ngàn năm nô lệ giặc tàu tưởng đã miên trường tăm tối hoặc bị đồng hóa với người Hán tộc, tưởng bấy nhiêu quá đủ để người VN phải khắc cốt ghi tâm, phải ăn sâu vào máu vào tim, vào tâm thức Việt cái ý thức, cái bản năng cạnh tranh sinh tồn khốc liệt đó. Có lý đâu lại kiên quyết trường kỳ : đánh miền nam VN cho LX, cho TQ ??? Nghĩ lại mà xem, bấy nhiêu đó đã không đủ hận hay sao ? Chưa nói đến những tội lỗi tày trời chỉ đáng cho trời tru đất diệt khác ... Đâu phải đâm đầu vào làm bạn vàng bạn tốt , để rồi bị đá lên đá xuống, mới ngộ ra được ?
http://songthu2.blogspot.com/2013/05/cuc-hay-cung-chi-la-cung-tac-bien-ma.html#comments
Xóahttp://danluan.org/tin-tuc/20130801/ngo-nhan-dung-dan-toc-thang-chu-nghia
Trả lờiXóaNgô Nhân Dụng - Dân tộc thắng chủ nghĩa
.... Các đảng Cộng sản thành công ở nhiều nước nhờ đã đội lốt phong trào dân tộc trong các cuộc cách mạng gọi là giải phóng. Người dân Việt (hay dân Trung Hoa, dân Campuchia) nghe nói “giải phóng” thì nghĩ đến việc thoát khỏi vòng đô hộ và chính sách bóc lột của các đế quốc thực dân. Còn theo đúng chủ nghĩa cộng sản thì nói “giải phóng” có nghĩa là giai cấp công nhân vùng lên lật đổ giai cấp “tư bản bóc lột.” Nhưng ngay từ đầu, các đảng cộng sản cũng mạo danh cả chủ nghĩa Mác để lòe bịp người lao động. Vì nếu đúng theo chủ nghĩa của Karl Marx, thì không thể nào có cách mạng vô sản ở các nước như Trung Hoa, Việt Nam, và Campuchia. Marx xác định rằng cách mạng vô sản chỉ bắt đầu ở các xã hội với một nền kinh tế tư bản đã phát triển hết tiềm năng của nó, chính nó tạo ra giai cấp vô sản sống cực khổ trong các thành thị, những người lao động sẽ “đóng vai trò lịch sử” thay đổi trật tự, giúp cả xã hội cùng tiến lên. Bây giờ thì ai cũng biết các lời tiên đoán của ông Karl Marx sai hết. Lịch sử nhân loại đã quẹo qua một ngả rẽ khác hẳn. Nhưng vào những năm 1930 nếu người ta tin vào kịch bản do ông Marx vẽ ra thì những nước Trung Hoa, Việt Nam, và Campuchia cũng chưa hội đủ các điều kiện để có “cách mạng vô sản” như ông ta tiên đoán.
Các phong trào cộng sản đã mạo danh dân tộc, chỉ cốt để cướp lấy chính quyền. Sau khi lừa bịp được mọi người và nắm quyền bính rồi, họ mới lộ rõ bộ mặt thật, là đang theo đuổi giấc mộng xây dựng thiên đường vô sản, theo đường lối Stalin.
Bây giờ, không còn ai bị lừa gạt nữa. Cho nên bọn cộng sản cầm quyền cũng không còn dám nhắc đến chủ nghĩa Mác Lê.
Riêng tại nước ta, đến lượt chính các lãnh tụ cộng sản phải đối đầu với tinh thần dân tộc của dân Việt. Anh Nguyễn Văn Hải, tức Ðiếu Cày, chỉ phạm có một tội là yêu nước Việt Nam. Vì thế, anh đã đòi Trung Cộng phải trả lại quần đảo Hoàng Sa và các đảo họ chiếm ở Trường Sa. Bỏ tù Ðiếu Cày, Tạ Phong Tần, Nguyễn Phương Uyên tức là muốn bỏ tù luôn cả tinh thần dân tộc của dân Việt Nam! Dân tộc Việt Nam sẽ không tha thứ cho hành động gian ác nối giáo cho giặc đó.
....